Kết quả Nghiên cứu tổng hợp về Sơ đồ hệ tiêu hoá của gà

Nghiên cứu tổng hợp về Sơ đồ hệ tiêu hoá của gà, về cấu tạo hệ tiêu hóa của gà có 14 bộ phận cùng thực hiện chức năng tiêu hóa điều tiết chất dinh dưỡng đi tới các cơ quan…

1 – Thực quản

2 – Diều

3 – Dạ dày tuyến

4 – Dạ dày cơ

5 – Lá lách

6 – Túi mật

7 – Gan

8 – Ống mật

9 – Tuyến tuỵ

10 – Ruột hồi manh tràng

11 – Ruột non

12 – Ruột thừa (manh tràng)

13 – Ruột già

14 – Ổ nhớp

Gia cầm có tốc độ trao đổi chất và năng lượng cao hơn so với động vật có vú. Cường độ tiêu hoá mạnh ở gia cầm được xác định bằng tốc độ di chuyển của thức ăn qua ống tiêu hoá. Ở gà còn non, tốc độ này là 30 – 39 cm trong 1 giờ; ở gà lớn hơn là 32 – 40cm và ở gà trưởng thành là 40 – 42cm (V.M. Xelianxki, 1986). Chiều dài của ống tiêu hoá gia cầm không lớn, thời gian mà khối thức ăn được giữ lại trong đó không vượt quá 2 – 4 giờ, ngắn hơn rất nhiều so với động vật khác, do đó, để quá trình tiêu hoá thức ăn diễn ra thuận lợi và có hiệu quả cao, thức ăn cần phải phù hợp về với tuổi và trạng thái sinh lý, được chế biến thích hợp, đồng thời có hàm lượng xơ ở mức ít nhất.

Tiêu hoá ở miệng

Gia cầm lấy thức ăn bằng mỏ. Hình dáng và độ lớn của mỏ ở các loài gia cầm rất khác nhau. Gà, gà tây và chim bồ câu có mỏ ngắn, nhọn và cứng, hơi cong. Thuỷ cầm có mỏ dài và bẹt, đoạn cuối của nó cong tròn và có một mẩu cong về phía dưới. Đường vành mỏ trên có thêm những răng nhỏ bằng sừng dùng dể lọc nước và cắn rau, cỏ. Trong chất sừng của mỏ có rất nhiều các đầu dây thần kinh, có chạc ba được gọi là các tiểu thể xúc giác. Dây thần kinh còn có ở trên vòm miệng cứng và dưới lớp sừng biểu bì của lưỡi. Ở thuỷ cầm mái, phần sừng ở mỏ trên thường có màu sắc rực rỡ hơn ở con trống.

Lưỡi gia cầm nằm ở đáy khoang miệng, có hình dạng và kích thước tương ứng với mỏ. Bề mặt phía trên của lưỡi có những gai rất nhỏ hoá sừng hướng về cổ họng, có tác dụng giữ khối thức ăn trong miệng và đẩy chúng về phía thực quản. Ở thuỷ cầm, theo mép viền của lưỡi có những gai cứng bằng sừng, cùng với những tấm nhỏ bên cạnh nằm ngang ở mỏ, chúng có tác dụng giữ thức ăn lại khi lọc nước.

Các cơ quan thị giác và xúc giác kiểm tra sự tiếp nhận thức ăn. Đối với gà và gà tây, các cơ quan vị giác và khứu giác rất kém phát triển. Khi không đủ ánh sáng, gà và gà tây sẽ ăn kém. Gia cầm thực hiện mổ và nuốt thức ăn nhờ các động tác nâng lên, hạ xuống linh hoạt của đầu. Gà thực hiện từ 180 – 240 động tác mổ trong 1 phút, gà tây 60. Số lượng thức ăn mà gia cầm ăn được trong 1 đơn vị thời gian phụ thuộc vào mức độ hấp dẫn của thức ăn, loài và tuổi của gia cầm. Khi gia cầm đói, nó mổ nhanh và ăn nhiều. Gia cầm tiếp nhận thức ăn lỏng và nước bằng cách nâng đầu rất nhanh rồi ngửa cổ lên để nuốt. Riêng chim bồ câu uống nước bằng cách thả mỏ, hút nước vào nhờ áp lực âm trong xoang miệng.

Việc điều khiển lượng thức ăn ở gia cầm được thực hiện bởi các trung tâm thần kinh của vùng dưới đồi thị. Các trung tâm này bị kích thích hoặc ức chế do ảnh hưởng của các yếu tố ngoại sinh (thành phần và tính chất của thức ăn, tần số và thời gian cho ăn) và nội sinh (mức độ của các quá trình trao đổi chất).

Khi thức ăn đi trong khoang miệng, nó được thấm ướt nước bọt đẻ dễ nuốt. Các tuyến nước bọt của gia cầm phát triển kém. Động tác nuốt ở gia cầm được thực hiện nhờ chuyển động rất nhanh của lưỡi, khi đó thức ăn được chuyển rất nhanh vào vùng trên của hầu vào thực quản. Thanh quản được nâng lên phía trước và lên trên, lối vào thanh quản bị ép tới đáy của xương dưới lưỡi và gốc lưỡi, ngăn không cho thức ăn rơi vào đường hô hấp. Viên thức ăn thu nhận được ở cuống lưỡi được đẩy vào lỗ thực quản và sau đó, do những co bóp nhu động của thành thực quản, nó được đẩy vào diều. Ở gia cầm đói, thức ăn được đẩy thẳng vào dạ dày, không qua diều. Trong thành thực quản có các tuyến nhầy hình ống, tiết ra chất nhầy, cũng có tác dụng làm ướt và trơn thức ăn khi nuốt.

Tiêu hoá ở diều

Ở gà, gà tây, gà phi và chim bồ câu, diều là một chỗ phình rộng hơn, hình túi. Ở vịt và ngỗng, diều là phần giãn rộng không lớn lắm nhưng rất dài của thực quản, làm cho nó có thể chứa được một lượng thức ăn cực lớn (để phục vụ cho việc nhồi thức ăn). Diều nằm bên phải, chỗ đi vào khoang ngực, ngay trước chạc ba nối liền 2 xương đòn phải trái. Mặt ngoài của diều được tiếp xúc trực tiếp với cơ da, cơ này giúp cho nó giãn nở rộng khi thức ăn rơi vào. Các lỗ dẫn vào và dẫn ra của diều rất gần nhau và có các cơ thắt. Giữa các cơ thắt lại có ống diều – là một phần của diều. Khi gia cầm đói, thức ăn theo ống này đi thẳng vào dạ dày, không qua túi diều. Ở gà, diều chứa được 100 – 120g thức ăn. Thức ăn ở diều được làm mềm ra, quấy trộn và được tiêu hoá từng phần bởi các men của thức ăn và các vi khuẩn nằm trong thức ăn thực vật.

Nếu làm thí nghiệm cắt diều của gà đi, thức ăn đi qua ống tiêu hoá nhanh hơn nhưng sự tiêu hoá lại giảm đi một cách đáng kể, gà đẻ sút cân. Sau một thời gian, cơ thể sẽ lại tạo ra một cái diều mới, bên trên chỗ diều cũ.

Tiêu hoá ở dạ dày

Dạ dày gia cầm gồm dạ dày tuyến và dạ dày cơ. Thức ăn từ diều được chuyển vào dạ dày tuyến, nó có dạng ống ngắn, Vifoodsh dày, được nối với dạ dày cơ bằng một eo nhỏ. Vifoodsh dạ dày tuyến cấu tạo gồm màng nhày, cơ và mô liên kết. Bề mặt của màng nhầy có những nếp gấp dễ thấy, đậm và liên tục.

Ở đáy màng nhầy có những tuyến hình túi phức tạp. Ở giống gà Leghorn có 215 – 320 thuỳ nhầy, những chất tiết của nó được đi ra bởi 50 – 74 lỗ trong các núm đặc biệt của các nếp gấp màng nhầy. Khối lượng của dạ dày tuyến ở gà vào khoảng 3,5 – 6g. Các mô có tuyến nhầy chiếm tới 51,4%.

Dịch dạ dày được tiết vào trong khoang của dạ dày tuyến, có axit clohidric, enzim và musin. Cũng như ở động vật có vú, pepsin được tiết ra ở dạng không hoạt động – pepsinogen và được hoạt hoá bởi axit clohidric. Các tế bào hình ống của biểu mô màng nhầy bài tiết ra một chất nhầy đặc rất giàu musin, chất này phủ lên bề mặt niêm mạc của dạ dày. Sự tiết dịch dạ dày ở gia cầm là liên tục, sau khi ăn thì tốc độ tiết tăng lên.

Dịch dạ dày tinh khiết là một chất lỏng không màu hoặc hơi trắng đục, có pH axit. Độ pH của dịch dạ dày ở gia cầm trung bình là 3,0; thường là 2,6. Độ pH sẽ giảm xuống sau khi tiếp nhận thức ăn giàu chất kiềm, cacbonat canxi, bột xương.

Ở gà, số lượng dịch dạ dày và độ axit tăng dần lên cùng với độ tuổi. Ở gà con vài ngày tuổi, dịch dạ dày có tính axit (pH = 4,2 – 4,4). Axit clohidric tự do không thường xuyên được tìm thấy trong khối chứa trong dạ dày của gà con có độ tuổi từ 1 – 5 ngày.

Kiểu cho ăn ảnh hưởng đến lượng chế tiết và hoạt tính proteolytic của dịch dạ dày. Nếu cho ăn thức ăn tổng hợp, có thêm củ cà rốt hoặc rau xanh nghiền nhỏ sẽ làm tăng sự chế tiết và sức tiêu hoá của dịch dạ dày ở gà con 1 – 5 ngày tuổi.

Ở gà con 31 – 40 ngày, độ axit đạt mức tối đa (pH = 1,15 – 1,55) và giữ ở mức độ đó với sự dao động không lớn trong các thời kỳ tiếp theo.

Hoạt tính phân giải protein (proteolytic) của dịch dạ dày ở gà con 10 – 20 ngày tuổi đạt tới mức độ cao (1,36 – 2,00mm) và sau đó bị thay đổi rất ít đến 60 ngày tuổi.

Dạ dày cơ (mề) có dạng hình đĩa, hơi bị bóp ở hai bên, nằm ở phía sau thuỳ trái của gan và lệch về khoang bụng trái. Ở những gia cầm ăn hạt (gà, gà tây, gà phi), dạ dày cơ lớn hơn một cách đáng kể so với ở thuỷ cầm. Lối vào và lối ra ở dạ dày cơ rất gần nhau, nhờ vậy, thức ăn được giữ lại tại đây lâu hơn, chúng sẽ bị nghiền nát bằng cơ học, trộn lẫn với men và được tiêu hoá dưới tác dụng của các dịch dạ dày cũng như enzim và chất tiết của vi khuẩn. Dịch tiêu hoá không được tiết ra ở dạ dày cơ.

Niêm mạc của mề rất dày và được cấu tạo từ hai lớp: biểu bì cùng với lớp màng bằng sừng và một lớp nhầy đặc chắc từ mô liên kết.

Trong việc tạo thành màng sừng có các tuyến của màng nhầy, biểu bì của những chỗ trũng ở dạ dày tham gia.

Màng sừng của mề luôn bị mòn đi, nhưng nhờ sự dày lên ở đáy nên chiều dày của nó được ổn định. Ngoài ý nghĩa cơ học, màng sừng còn giữ cho Vifoodsh dạ dày khỏi bị tác động của những yếu tố bất lợi. Màng sừng bền với pepsin, không bị hoà tan trong các axit loãng, kiềm và các dung môi hữu cơ (Ju, T. T echver, 1984).

Các sản phẩm tiêu hoá, thức ăn, vi khuẩn không được hấp thu qua màng sừng, Vifoodsh dạ dày.

Chất lượng của màng sừng phụ thuộc vào kiểu cho ăn. Nếu trong thời gian dài chỉ cho gà ăn thức ăn ướt, thì màng sừng bị mềm đi và biến mất.

Lớp cơ của mề cấu tạo từ mô cơ phẳng, một đôi cơ lớn chính có dạng hình tam giác hướng các đáy lại với nhau đã tạo nên khối cơ của Vifoodsh mề.

Sự co bóp nhịp nhàng của mề xảy ra trong 2 pha: trong pha đầu, 2 cơ chính co bóp; và sau đó là các cơ trung gian (pha thứ 2). Thời gian của mỗi nhịp co của 2 đôi cơ ở gà trong khoảng 2 – 3 giây, còn cả chu kỳ co bóp là 20 giây. Tần số co bóp phụ thuộc vào độ rắn của thức ăn. Khi ăn thức ăn ướt có 2 lần co bóp, còn thức ăn cứng – 3 lần trong 1 phút.

Tần số co bóp của mề trung bình ở gà là: khi đói 2,6; sau khi cho ăn 2,9; một giờ sau khi ăn 2,3 lần/ph. Sỏi và các dị vật chứa trong dạ dày có một ý nghĩa nhất định trong việc nghiền và làm sạch những tiểu thể thức ăn trong khoang dạ dày. Chúng làm tăng tác dụng nghiền của Vifoodsh dạ dày.

Đối với gia cầm, sỏi tốt nhất là từ thạch anh, chúng bền với axit clohidric của dịch dạ dày. Để hệ tiêu hoá hoạt động bình thường thì kích thước của các viên sỏi với gà con mới nở nên nhỏ (đường kính 2,5 – 3mm) và tăng lên theo tuổi. Gia cầm đã trưởng thành có thể nuốt được loại sỏi có đường kính đến10 mm. Không nên thay sỏi bằng cát, đá vôi, thạch cao, vỏ sò, vỏ ốc hến, phấn. Cát sẽ đi rất nhanh từ dạ dày vào ruột và gây kích thích. Những chất khác đã kể trên sẽ bị axit clohidric hoà tan và gây rối loạn tiêu hoá ở dạ dày, sau đó là ở ruột.

Nếu không có sỏi trong dạ dày cơ thì sự hấp thu các chất dinh dưỡng và hệ số tiêu hoá thức ăn bị giảm xuống. Ở gia cầm non, việc thiếu sỏi trong dạ dày làm giảm khối lượng tuyệt đối của dạ dày 30 – 35%. Các cơ của dạ dày sẽ trở nên nhũn và xuất hiện những vết loét trên màng nhầy.

Trong dạ dày cơ, ngoài việc nghiền thức ăn cơ học, còn sảy ra quá trình hoạt động của các men. Dưới tác động của axit clohidric, các phân tử protein trở nên căng phồng và dễ bị phân giải.

Tiêu hoá ở ruột

Quá trình tiêu hoá các chất dinh dưỡng đều xảy ra ở ruột non gia cầm. Nguồn các men tiêu hoá quan trọng nhất là từ dịch dạ dày, cùng với mật đi vào manh tràng, chất tiết của các tuyến ruột có ý nghĩa kém hơn.

Dịch ruột gà là một chất lỏng đục, có phản ứng kiềm yếu (pH – 7,42) với tỷ trọng 1,0076. Trong thành phần dịch ruột có các men proteolytic, aminolytic và lypolytic và cả men enterokinaza.

Dịch tuỵ là một chất lỏng không màu, hơi mặn, có phản ứng hơi toan hoặc hơi kiềm (pH 7,2 – 7,5). Trong chất khô của dịch, ngoài các men, còn có các axiTamin, lipit và các chất khoáng (NaCl, CaCl 2, NaHCO3…).

Dịch tuỵ của gia cầm trưởng thành có chứa các men tripsin, cacbosipeptidaza, amilaza, mantaza, invertaza và lipaza.

Tripsin được bài tiết ra ở dạng chưa hoạt hoá là tripsinogen, dưới tác động của men dịch ruột enterokinaza, nó được hoạt hoá, phân giải các protein phức tạp ra các axiTamin. Men proteolytic khác là các cacbosipeptidaza được tripsin hoạt hoá cũng có tính chất này.

Các men amilaza và mantaza phân giải các polysacarit đến các monosacarit như glucoza, Lipaza được dịch mật hoạt hoá, phân giải lipit thành glyserin và axit béo.

Cơ chế việc chế tiết tuyến tuỵ ở gia cầm giống với động vật có vú. Ở gà 10 – 12 tháng tuổi, trước khi cho ăn, tuyến tiết ra một lượng dịch nhỏ: 0,4 – 0,8ml/giờ (sự chế tiết bình thường). Từ 5 – 10 phút sau khi cho ăn, mức độ chế tiết tăng 3 – 4 lần và giữ đến giờ thứ ba, sau đó việc tiết dịch dần dần giảm xuống, đến giờ thứ 9 – 10 sau khi cho ăn thì bằng mức độ ban đầu.

Số lượng dịch và hoạt tính men thay đổi phụ thuộc vào thể tích và thành phần thức ăn. Thức ăn giàu protein sẽ nâng hoạt tính proteolytic của dịch lên đến 60%; thức ăn giàu lipit sẽ làm tăng cường hoạt tính lypolytic, hoạt tính này được giữ ở mức độ cao đến 10 giờ. Bột đậu tương có chứa nhiều protein và dầu sẽ nâng mức độ chế tiết của tuyến lên 85% và đồng thời cũng nâng cả hoạt tính proteolytic và hoạt tính lypolytic của dịch lên tương ứng đến 20% và 16%.

Mật được gan tiết ra không ngừng, một phần đi vào túi mật (gà, vịt, ngỗng), phần còn lại thì đổ trực tiếp và tá tràng. Ở chim bồ câu, gà phi và đà điểu không có túi mật, tất cả mật tiết ra đều đổ thẳng vào tá tràng.

Mật gia cầm là một chất lỏng màu sáng hoặc xanh đậm, kiềm tính (pH 7,3 – 8,5). Dịch trong túi mật đậm đặc hơn và có màu đậm hơn. Về thành phần mật, ở các loài gia cầm khác nhau không giống nhau. Lượng chất khô chứa trong mật gan ở gà là 3 – 4%, còn trong túi mật 7,9; độ đặc là 1,01 – 1,04. Các thành phần điển hình của mật là các axit mật, sắc tố, và cholesterin, ngoài ra còn có gluxit, các axit béo và các lipit trung tính, musin, các chất khoáng và các sản phẩm trao đổi chất có chứa nitơ. Ngoài sự tham gia vào quá trình tiêu hoá ở ruột, gan còn đóng vai trò quan trọng trong trao đổi protein, gluxit, lipit và khoáng. Trong gan, các axit uric, các chất cặn bã khác, hồng cầu chết bị phân huỷ, chất độc hại… được trung hoà và thải vào nước tiểu. Trong các tế bào của gan có chứa glycogen, là nguyên liệu để tạo nên các vitamin quan trọng (A, D, và các vitamin khác).

Các men trong ruột hoạt động trong môi trường axit yếu, kiềm yếu; pH dao động trong những phần khác nhau của ruột.

Trong tá tràng, dưới tác động của axit clohidric và các men của dịch dạ dày (pepsin và chimosin), protein bị phân giải đến pepton và polypetit. Các men proteolytic của dịch tuỵ tiếp tục phân giải chúng đến các axiTamin trong hồi tràng; gluxit của thức ăn được phân giải đến các monosacarit, do tác động của amilaza của dịch tuỵ và một phần do amilaza của mật và của dịch ruột; Sự phân giải lipit được bắt đầu trong tá tràng, dưới tác động của dịch mật, dịch tuỵ và tạo ra các sản phẩm là monoglyserit, glyserin và axit béo.

Các quá trình tiêu hoá và hấp thu ở ruột non xảy ra đặc biệt tích cực. Sự phân giải các chất dinh dưỡng không chỉ có trong khoang ruột (tiêu hoá ở khoang), mà cả ở trên bề mặt các lông mao của các tế bào biểu bì (sự tiêu hoá ở màng). Tiêu hoá ở khoang là sự thuỷ phân thức ăn, còn tiêu hoá ở màng là các giai đoạn tiếp theo, tạo ra các sản phẩm cuối cùng của sự tiêu hoá để hấp thu (A. M. Ugolep, 1980). Các cấu trúc phân tử và trên phân tử của thức ăn có kích thước lớn được phân giải dưới tác động của các men trong khoang ruột, tạo ra các sản phẩm trung gian nhỏ hơn, chúng đi vào vùng có nhiều nhung mao của các tế bào biểu mô. Ở đó, trên các nhung mao có các men tiêu hoá, tại đây diễn ra giai đoạn cuối cùng của sự thuỷ phân để tạo ra sản phẩm cuối cùng như axiTamin, monosacarit chuẩn bị cho việc hấp thu. Quan hệ qua lại của quá trình tiêu hoá ở khoang, ở màng và vai trò của tiêu hoá màng ruột của gia càm hiện nay còn chưa được nghiên cứu đầy đủ.

Sự tiêu hoá trong manh tràng của gia cầm nhờ có các men đã đi vào cùng với chymus từ phần ruột non và từ hệ vi khuẩn. Các vi sinh vật bắt đầu thâm nhập vào manh tràng gia cầm non ngay từ lần tiếp nhận thức ăn đầu tiên. Ở đây, các vi khuẩn streptococei, trực khuẩn ruột, lactobasilli…sinh sản rất nhanh. Trong manh tràng cũng sảy ra quá trình tiêu hoá protein, gluxit và lipit. Ngoài ra, các vi khuẩn còn tổng hợp các vitamin nhóm B.

Khả năng tiêu hoá chất xơ của gia cầm rất hạn chế. Cũng như ở động vật có vú, các tuyến tiêu hoá của gia cầm không tiết ra một men đặc hiệu nào để tiêu hoá xơ. Một lượng nhỏ chất xơ được phân giải trong manh tràng bằng các men do vi khuẩn tiết ra. Những gia cầm nào có manh tràng phát triển hơn như đà điểu, ngan, ngỗng… thì các chất xơ được tiêu hoá nhiều hơn.

Ở các loại gia cầm khác nhau thì chỉ có có trung bình từ 10 – 30% cất xơ được phân giải.

Sự hấp thu

Ở gia cầm, các quá trình hấp thu chủ yếu xảy ra ở ruột non. Ở đây các sản phẩm phân giải cuối cùng protein, lipit và gluxit; nước, các chất khoáng, các vitamin được hấp thu.

Các chất chứa nitơ chủ yếu được hấp thu dưới dạng các các axiTamin. Cường độ hấp thu các axiTamin riêng biệt không phụ thuộc vào khối lượng phân tử của chúng. Ở gà thấy có sự hấp thu một cách cạnh tranh giữa một số axiTamin. Việc hấp thu metionin sẽ bị ngừng lại một chút khi có mặt phenilalanin; sự hấp thu lersin không bị thay đổi dưới tác động của axit glutamic. Các chất đồng phân riêng biệt của metionin được hấp thu nhanh hơn.

Gluxit được hấp thu dưới dạng các đường đơn (monosacarit) và đường đôi (disacarit). Khả năng hấp thu đường ở gà được phát triển trong 14 ngày tuổi. Glucoza và galactoza được hấp thu nhanh hơn một cách đáng kể so với fructoza và mantoza.

Hấp thu mỡ. Trong ruột, dưới tác động của men lipaza, mỡ được phân giải đến glyserin và axit béo. Các sản phẩm của sự phân giải mỡ, về cơ bản được hấp thu trong phần mỏng của ruột. Glyserin được hoà tan rất tốt trong nước và được hấp thu rất nhanh. Các axit béo kết hợp với các axit mật, kali và natri tạo thành các hợp chất hoà tan được trong nước sau đó mới được hấp thu. Người ta cho rằng một phần nhỏ của lipit dưới dạng các nhũ tương có thể được hấp thu trực tiếp.

Trong tương bào của biểu mô ruột, các axit béo bị tách ra khỏi các axit mật và một phần được tái tổng hợp thành các phân tử của lipit. Các axit béo được giải phóng ra trong quá trình hấp thu kích thích sự hấp thu lẫn nhau, chẳng hạn, khi có các axit béo không bão hoà thì vận tốc hấp thu các axit béo bão hoà như palmitinic và stearinic được tăng lên trong ruột non gà con. Hiệu quả của việc bổ sung lipit vào khẩu phần của gà con phụ thuộc vào tỷ lệ giữa các axit béo bão hoà và không bão hoà trong khẩu phần.

Hấp thu nước ở gia cầm được thực hiện trong tất cả các phần ruột non và ruột già. Có từ 30 – 50% nước nước uống được hấp thu, quá trình này phụ thuộc áp suất thẩm thấu trong ruột, trong máu và các mô. Người ta đã xác định được rằng trong một số trường hợp, ở gia cầm có sự tuần hoàn nước, một phần nước đã được hấp thu từ ruột vào máu rồi lại bị bài tiết trở lại vào diều, làm nó căng phồng lên.

Các chất khoáng được hấp thu trên toàn bộ chiều dài ruột non. Diều, dạ dày và ruột già hấp thu các chất khoáng không đáng kể. Các muối natri, kali clorua hoà tan được trong chymus, được hấp thu một cách chọn lọc và với tốc độ khác nhau, phụ thuộc vào nhu cầu về các chất đó của cơ thể. Natri clorua đặc biệt dễ được hấp thu trong ruột gà con, vịt con và gà tây con. Khi cho ăn thừa, muối này sẽ sinh ra sự rối loạn trao đổi chất, gà sẽ bị nhiễm độc muối.

Cường độ hấp thu canxi phụ thuộc vào nồng độ canxi trong máu, tính chất của khoáng trong thức ăn cũng như hàm lượng dịch mật và vitamin D 3 trong ruột. Khi gà bị bệnh còi xương thì sự hấp thụ canxi bị giảm xuống đột ngột. Canxi còn bị hấp thu ít hơn khi không có đủ vitamin D trong khẩu phần. Muối canxi clorua được hấp thu tốt hơn so với các muối canxi khác. Lượng photpho quá cao trong khẩu phần sẽ làm ngừng việc hấp thu canxi. Tuổi và trạng thái sinh lý của gia cầm cũng ảnh hưởng đến sự hấp thu canxi. Người ta nhận thấy rằng, ở gà con 4 tháng tuổi chỉ có 25% canxi được hấp thu, còn ở gà đẻ trứng từ 6 – 12 tháng tuổi là 50 – 60%. Trong thời gian thay lông ở gà 14 tháng tuổi, có 32% canxi được hấp thu.

Sự hấp thu photpho phụ thuộc vào sự tương quan của nó với canxi và được xác định bởi nhu cầu trong cơ thể gia cầm.

Vitamin A được hấp thu ở manh tràng. Gia cầm non hấp thu vitamin A nhanh hơn nhiều so với gia cầm trưởng thành: sau 1 – 1,5 giờ sau khi cho ăn đã tìm thấy vitamin này trong máu, còn ở gà mái đẻ chỉ thấy sau khi ăn 12 giờ. Trong ruột gia cầm, vitamin A được tìm thấy trong biểu mô của màng nhầy, ở dạng este.

Sự hấp thu carotin xảy ra sau khi chúng vừa giải phóng khỏi các hợp chất béo và việc hoà tan chúng trong chymus. Các axit mật gây kích thích hấp thụ huyền dịch   – carotin. Việc hấp thu carotin bị giảm xuống khi cơ thể được cung cấp vitamin A.

Cường độ hấp thu vitamin B 1 phụ thuộc vào nhu cầu của cơ thể và vào nồng độ của nó có trong thức ăn. Sự hấp thu xảy ra tốt hơn ở những phần bên trên của ruột non. Việc bổ sung các chất kháng sinh vào thức ăn làm tăng Cường sự hấp thu tiamin ở gà con.

Vitamin E ở gà con được hấp thu với sự tham gia của dịch mật.

kết luận: Kết quả Nghiên cứu tổng hợp về Sơ đồ hệ tiêu hoá của gà Vifoods


Tag:

Back to top